Bệnh FIP ở mèo: Dấu hiệu, con đường lây truyền và cách phòng ngừa
Những người nuôi và yêu thú cưng chắc hẳn ít nhất một lần đã nghe và biết đến bệnh FIP ở mèo. Đây là căn bệnh khó chữa, với tỉ lệ tử vong cao, thậm chí mang đến cái chết đáng thương ở mèo. Cùng bệnh viện thú cưng Samyang tìm hiểu về bệnh FIP ở mèo là gì? Dấu hiệu, triệu chứng, con đường lây truyền cũng như các biện pháp phòng tránh nhé.
FIP (Feline Infectious Peritonitis) ở mèo là gì?
FIP do một số chủng virus Corona (FCoV) ở mèo gây ra. Vi rút Corona là một nhóm virus phổ biến thường lây nhiễm ở đường hô hấp trên (mũi và họng) hoặc đường tiêu hóa (ruột) ở các loài động vật khác nhau.
Hầu hết các chủng virus corona ở mèo đều được tìm thấy trong đường tiêu hóa và không gây bệnh nghiêm trọng. Chúng được gọi là virus Corona đường ruột ở mèo (FeCV). Mèo bị nhiễm FeCV thường không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào trong lần nhiễm virus ban đầu, nhưng đôi khi có thể bị tiêu chảy từng cơn ngắn hoặc có dấu hiệu nhẹ ở đường hô hấp trên và sau đó chúng sẽ tự phục hồi. Mèo bị nhiễm FeCV thường tạo ra phản ứng miễn dịch qua đó tạo ra kháng thể chống lại vi rút trong vòng 7-10 ngày sau khi bị nhiễm bệnh.
Bệnh FIP ở mèo là do một số chủng do virus Corora gây ra
Tuy nhiên, đôi khi, virus sẽ nhân lên và biến đổi, dẫn đến các tế bào bạch cầu bị nhiễm virus và lây lan khắp cơ thể mèo. Khi điều này xảy ra, virus được gọi là FIPV. Phản ứng viêm dữ dội với FIPV xảy ra xung quanh các mạch máu trong các mô nơi các tế bào bị nhiễm bệnh , thường ở bụng, thận hoặc não. Chính sự tương tác giữa hệ thống miễn dịch của cơ thể và virus là nguyên nhân gây ra sự phát triển của FIP.
Việc phát hiện virus Corona ở mèo không có nghĩa là chúng mắc bệnh FIP và không thể phân biệt một cách nhất quán sự khác biệt giữa virus Corona gây FIP và virus không gây ra dấu hiệu nào chỉ bằng cách chỉ tìm thấy virus.
Dấu hiệu mèo mắc bệnh FIP
FIP có thể gây ra nhiều dấu hiệu lâm sàng khác nhau, tùy thuộc vào bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng và cách hệ thống miễn dịch phản ứng. Các dấu hiệu ban đầu của FIP thường bao gồm sốt gián đoạn, chán ăn và mệt mỏi.
Sau khoảng thời gian vài ngày hoặc vài tuần (hoặc đôi khi thậm chí nhiều tháng), các dấu hiệu khác thường xuất hiện. Về mặt cổ điển, FIP được chia thành dạng ‘ướt (tràn dịch)’ và ‘khô’, nhưng trên thực tế, mèo có thể mắc cả hai dạng này vào những thời điểm khác nhau hoặc kết hợp cả hai dạng.
Dạng tràn dịch
Là những dấu hiệu đặc trưng của bệnh lý mạch máu (tức là rò rỉ protein huyết thanh và chất lỏng vào các khoang cơ thể).
- Cổ trướng có thể đi kèm với biểu hiện chướng bụng
- Tràn dịch màng phổi có thể đi kèm với thở nhanh, khó thở, màng nhầy tím tái hoặc tiếng tim bị bóp nghẹt.
- Tràn dịch màng ngoài tim ít gặp hơn có liên quan đến FIP.
- Các bất thường khác có thể bao gồm vàng da, hạch to, phù bìu (do viêm thanh dịch màng bao âm đạo của tinh hoàn) và đi khập khiễng (do viêm màng hoạt dịch).
Mèo mắc bệnh FIP với bụng to bất thường
Dạng khô
Là những dấu hiệu đặc trưng cho sự hình thành u hạt trong các cơ quan. Các phát hiện phụ thuộc vào hệ thống cơ quan bị ảnh hưởng (thường là thận, gan, ruột, hạch bạch huyết bụng, não và mắt) và có thể không rõ ràng.
- Bất thường ở mắt là phổ biến.
- Với viêm màng bồ đào trước, có thể xảy ra một bên hoặc hai bên, có thể phát hiện được vết loét nước, nốt ban, mủ dưới, dịch tiết fibrin, co đồng tử và kết tủa sừng. Viêm màng bồ đào cũng có thể xảy ra.
- Viêm màng đệm võng mạc có thể dẫn đến hiện tượng quấn quanh mạch máu võng mạc do thâm nhiễm tế bào viêm hoặc xuất huyết võng mạc khu trú lan tỏa, phù dưới võng mạc hoặc bong võng mạc. Mù có thể là một di chứng.
- Có thể ghi nhận sự tân mạch của mống mắt.
- Có thể sờ thấy hạch to ở bụng và các nốt bất thường trên bề mặt của thận, gan hoặc các cơ quan bụng khác có kích thước bình thường hoặc to.
- Các u hạt khu trú trong đường ruột có thể tạo ra các quai ruột dày lên rõ rệt. Dính mạc nối và nội tạng có thể được phát hiện dưới dạng khối sờ thấy ở bụng. Các dấu hiệu GI liên quan có thể bao gồm nôn mửa, tiêu chảy hoặc táo bón.
- Với viêm phổi u hạt, khó thở và các dấu hiệu hô hấp khác có thể được ghi nhận.
- Viêm tĩnh mạch hoặc viêm mạch da hoại tử u hạt có thể tạo ra các nốt hoặc sẩn có thể có hoặc không kèm theo ngứa.
Đối tượng thường bị ảnh hưởng
Bất kỳ bé mèo nào mang FCoV đều có nguy cơ phát triển FIP, tuy nhiên thường thấy nhất ở :
- Những chú mèo đuợc nuôi theo nhóm hoặc đàn.
- Mèo <2 tuổi và mèo >10 tuổi.
- Mèo đực bị ảnh hưởng hơn mèo cái.
- Những con mèo bị căng thẳng do chuyển nhà, gần đây đã phẫu thuật hoặc bị nhiễm trùng đồng thời (nhiều bệnh nhiễm trùng cùng một lúc) cũng có thể dễ bị FIP hơn.
- Những con mèo thuần chủng bao gồm Abyssinian, Bengal, Birman, Himalayan, Ragdoll và Devon Rex có thể dễ mắc FIP hơn.
Con đường truyền lây
- FCoV có khả năng lây nhiễm cao và lây truyền qua đường phân-miệng hoặc qua đồ vật. Phương thức lây truyền phổ biến nhất là từ mẹ bị nhiễm bệnh sang mèo con của chúng.
- Nhiễm trùng hầu như chỉ liên quan đến loại sinh học FCoV ít độc lực hơn, không biến đổi. Kiểu sinh học FIPV không được coi là có thể lây nhiễm; đúng hơn là nó được cho là phát triển độc lập ở từng con mèo (giả thuyết đột biến nội bộ) và chỉ một lượng tối thiểu FIPV được thải ra trong phân của chúng.
Chẩn đoán mèo bị FIP thế nào?
Rất khó để chẩn đoán chính xác mèo bị bệnh FIP nên cần làm rất nhiều xét nghiệm chuyên sâu
FIP là một căn bệnh rất khó điều trị vì không có dấu hiệu lâm sàng cụ thể để chẩn đoán FIP và cũng không có xét nghiệm máu đơn giản để xác nhận chẩn đoán. FIP có thể được coi là có nhiều khả năng xảy ra hơn khi:
- Mèo đang có dấu hiệu lâm sàng tương thích với FIP.
- Mèo thuộc nhóm nguy cơ cao hơn (ví dụ: mèo nhỏ hơn, mèo thuộc địa, v.v.).
- Những thay đổi điển hình được thấy trong các xét nghiệm máu định kỳ – chúng có thể bao gồm:
- Giảm bạch cầu (số lượng tế bào lympho thấp, một loại tế bào bạch cầu.
- Bạch cầu trung tính (tăng số lượng bạch cầu trung tính, một loại tế bào bạch cầu).
- Thiếu máu (hồng cầu thấp).
- Nồng độ globulin tăng cao (một trong những nhóm protein chính trong máu).
- Men gan tăng cao (ví dụ ALT, ALP).
- Tăng bilirubin (và vàng da hoặc vàng nướu và mắt).
- Chụp X-quang, siêu âm có thể phát hiện chất lỏng trong bụng, có thể phân tích FIP, nhưng không phải lúc nào cũng có kết luận chính xác.
Mèo bị FIP có điều trị được không?
Từ lâu, FIP được coi là “bản án tử” đối với bất kỳ chú mèo nào khi mắc phải. Tuy nhiên, gần đây thuốc kháng virus mới được giới thiệu để giúp điều trị FIP.
Đặc biệt, hiện nay với y học trong thú y ngày càng tiến bộ và hiện đại, kết hợp cùng bác sĩ tay nghề cao đã cứu vớt được rất nhiều chú mèo bị bệnh FIP được chữa trị thành công. Điển hình là bệnh viện thú y Samyang đã điều trị khỏi hoàn toàn được các ca mắc bệnh FIP ngay khi được phát hiện ở giai đoạn sớm, giúp các bé mau chóng phục hồi trở về với người chủ thân yêu.
Cách phòng tránh bệnh FIP ở mèo
Vì FIP phát triển sau virus Corona trong ruột mèo biến đổi, nên cách tốt nhất để ngăn ngừa FIP ở mèo là tránh lây nhiễm ban đầu với virus Corona.
- Tránh nuôi nhiều mèo và đẻ nhiều mèo con cùng một lúc.
- Giữ cho mèo của bạn khỏe mạnh nhất có thể: một chế độ ăn uống lành mạnh và tiêm chủng vaccine đầy đủ.
- Tăng cường sức khỏe đường ruột.
- Giữ hộp đựng rác, khay vệ sinh sạch sẽ.
- Giữ hộp vệ sinh cách xa đĩa đựng thức ăn và nước uống.
- Nếu bạn nuôi nhiều mèo, hãy nuôi tối đa ba con mèo trong mỗi phòng để tránh điều kiện sống quá đông đúc. Hạn chế mức độ căng thẳng cho mèo ở mức thấp nhất.
Trên thị trường có vắc xin FIP, tuy nhiên vắc xin này chưa được chứng minh là có hiệu quả. Việc tiêm vắc xin này thường không được khuyến khích chủ vật nuôi tiêm, cần được tham khảo ý kiến bác sĩ thú y trước khi muốn tiêm phòng cho con vật.